Phong tục Tang Lễ được tổ chức khác nhau ở các dân tộc trên Việt Nam, mỗi một dân tộc có những nghi lễ tổ chức khác nhau mặc dù không nhiều nhưng đều có những bước cơ bản tương đối giống nhau ở các người Kinh cũng như các dân tộc thiểu số khác. Thậm chí trong tang lễ ngày nay có những điểm khác so với thời kỳ từ thế kỷ 20 trở về trước.
Công việc sơ khởi
Đối với những trường hợp người gần chết, người thân có thể phán đoán biết trước thì việc đầu tiên là hỏi xem người gần chết có trăn trối những gì, những lời nhắn nhủ lúc này được gọi là di ngôn, hỏi người đó có tự đặt lấy tên thụy (hay còn gọi là tên hèm) tức là tên sau này để khấn khi cúng cơm nên còn được gọi là tên cúng cơm. Kế tiếp dùng nước ngũ vị hươnglau sạch sẽ thân người, thay đổi quần áo tươm tất. Khi người đó tắt hơi rồi, lấy chiếc đũa để ngang hàm gọi là để cho răng khỏi nghiến vào nhau, sau bỏ một vốc gạo và ba đồng tiền vào miệng, nhà giàu thì thường dùng ba miếng vàng sống, đây được gọi là ngậm hàm hoặc phạn hàm.
Trùng tang
Đoàn rước linh cữu vua Khải Định, dẫn đầu là phường tuồng để trừ tà dọc đường.
Theo phong tục, ngày giờ người chết vừa tắt thở phải nhớ chính xác để đem cho thầy tự xem có bị rơi vào giờ trùng tang hoặc bị quỷ tinh ám ảnh hay không. Nếu gặp ngày giờ xấu thì phải nhờ thầy dùng bùa để tống xuất, lá bùa này được dán trên quan tài và cho vào những vỏ ốc chôn ở bốn phía ngôi mộ, hoặc bỏ vào quan tài một cỗ bài tổ tôm, quyển lịch Tàu hay lịch ta, tàu lá gói để trấn áp ma quỷ, hoặc khi đem chôn thì có một phường tuồng đóng vai thiên thần đi trước đám tang múa thành những đạo bùa yểm để trừ tà ma ở dọc đường hoặc ở mộ huyệt (trường hợp này mộ huyệt phải đào tam cấp).
Hạ tịch
Đưa người vừa mất xuống chiếu trải dưới đất 1 chốc rồi đưa lên lại, lấy nghĩa người bởi đất sinh ra thì khi chết lại về với đất (nhân sinh ư thổ, diệc hoàn ư thổ) hoặc để lấy đủ âm dương cho người chết, hoặc hy vọng rằng việc này có thể hoàn sinh khí cho người đã mất.
Cáo phó
Cáo phó là thông báo về tang lễ thường được đặt trước cổng tang gia hoặc gửi đến từng người thân thích. Ngày nay có thể đăng cáo phó trên các phương tiện truyền thông hoặc gọi điện thoại báo tin. Trên cáo phó phải ghi rõ tên người chết, ngày sinh và mất, và chi tiết về tang lễ như thời gian địa điểm làm lễ nhập quan và di quan...
Khâm liệm và nhập quan
Khâm liệm là dùng vải để quấn người chết, thường thì người nhà dùng vải thường trắng (đối với gia đình khá giả dùng vải tơ lụa) may làm đại liệm, tiểu liệm. Sau khi liệm xong, những người thân đứng quanh quan tài, nâng người chết bằng 4 góc của tấm vải tạ quan và đặt vào quan tài gọi là nhập quan. Trên quan tài đặt 1 chén cơm úp (2 chén cơm úp thành 1), trên có cắm đôi đũa và quả trứng gà luộc gọi là cơm bông, xưa có tục cướp cơm bông để cho trẻ ăn để phòng bệnh, quan tài phải quay đầu ra ngoài.
Thiết linh sàng, linh tọa
Linh sàng là giường của linh hồn, thường được lập ở phía đông, có quây màn và để gối như lúc sống. Linh tọa là bàn thờ đặt trước linh cữu, giữa linh tọa đặt bài vị bằng nan tre ghi họ tên hoặc ảnh người chết, 2 bên có đèn nến, trước có bát nhang, rượu và mâm ngũ quả
Tang phục
Tục lệ xưa sau khi chết 4 ngày thì con cháu mới mặc đồ tang gọi là lễ thành phục. Tang phục được quy định như sau:
-
Con trai: đội mũ rơm quấn bẹ chuối, áo sô gai, cầm gậy (cha mất thì gậy tre, mẹ mất thì gậy vông vì quan niệm là công cha nặng hơn nghĩa mẹ).
-
Con dâu, con gái: áo sô gai, thắt lưng bện bằng bẹ chuối, áo xổ gấu hoặc không (tùy theo cha còn hay mẹ còn, con gái còn ở nhà hay đã xuất giá), đầu chít khăn tang.
-
Cháu nội: đội mũ mấn, khăn trắng, mặc áo thụng trắng.
-
Con rể, anh em trai: mặc áo thụng trắng.
-
Chị em gái: quấn vặn khăn trắng với tóc.
Ngoài ra, theo Quốc triều Hình luật có quy định cách thức mặc đồ tang và thời gian để tang (Hoàng Việt luật lệ về sau cũng không thay đổi), như sau:
Năm hạng áo tang |
Hình thức |
Trảm thôi (đại tang) |
Tang 3 năm, áo vải sô rất xấu, không khâu gấu. |
Tư thôi (cơ niên) |
Tang 1 năm có chống gậy, 1 năm không chống gậy, 5 tháng, 3 tháng; áo may vải sô gai có khâu gấu. |
Đại công |
Tang 9 tháng, áo may vải to sợi. |
Tiểu công |
Tang 5 tháng, áo may vải to sợi. |
Ty ma |
Tang 3 tháng. |
-
Một số thời hạn để tang đối với những người có quan hệ gần
Quan hệ |
Thời hạn để tang |
Cố ông/bà |
Tư thôi, 3 tháng |
Cụ ông/bà |
Tư thôi, 5 tháng |
Ông, bà |
Tư thôi, không phải chống gậy thì 1 năm |
Cha, mẹ |
Trảm thôi, 3 năm |
Chú, bác, thím |
Tang 1 năm |
Cô ruột |
Cô còn ở nhà: tang 1 năm; lấy chồng: tang 9 tháng |
Anh em ruột |
Tang 1 năm |
Chị em dâu |
Tang 9 tháng |
Anh em chú bác |
Tang 9 tháng |
Chị em ruột |
Còn ở nhà: tang 1 năm; lấy chồng: tang 9 tháng |
Chị em chú bác |
Ở nhà: tang 9 tháng; lấy chồng: tang 5 tháng |
Con trai trưởng |
|
Con dâu trưởng |
Tang 1 năm |
Con trai thứ |
Tang 1 năm |
Con dâu thứ |
Tang 9 tháng |
Quốc triều Hình luật không quy định việc để tang đối với bên ngoại và một số mối quan hệ khác, tuy nhiên người dân vẫn dựa theo Thọ Mai gia lễ để chịu tang, cụ thể một số trường hợp sau:
Quan hệ |
Thời hạn để tang |
Cháu ngoại |
Ông bà ngoại để tang 3 tháng; cháu dâu, cháu gái đã có chồng: không để tang |
Cậu, dì (anh chị em ruột với mẹ) |
Tang 5 tháng |
Mợ (vợ cậu), dượng (chồng dì) |
Không để tang |
Cháu (gọi người để tang bằng cậu) |
Cậu để tang 5 tháng |
Cha mẹ vợ |
Tang 1 năm, ngoài ra con rể không phải để tang một người nào khác bên vợ |
Chồng |
Trảm thôi, 3 năm |
Vợ |
Tang 1 năm |
Vợ kế |
Nếu có con: tang 9 tháng; không có con: tang 5 tháng |
Con rể |
Tang 3 tháng |
Phúng điếu
Phúng điếu là sự thăm hỏi, giúp đỡ bằng hình thức tiền bạc, nhang đèn hoặc hoa quả, liễn, văn điếu... Theo tục lệ thì khi chưa mặc tang phục thì không được tiếp khách đến phúng điếu. Khi khách phúng điếu vái lạy người chết thì tang gia phải lạy trả lễ một nửa số vái. Ngày nay có 1 số gia đình không nhận tiền phúng điếu, việc này được ghi rõ trên cáo phó.
Thổi kèn giải
Trong những ngày còn quan tài trong nhà, gia chủ thường mời những ban nhạc đến thổi kèn, sáo, đánh đàn, trống. Ngày nay, có thêm những ban kèn tây, đàn guitar, đàn ca tài tử cải lương, hoặc mời cả ban nhạc đồng tính luyến ái đến hát.
Chia sẻ Facebook |